Nguyên nhân giảm điểm và triển vọng thị trường chứng khoán trong thời gian tới

09/11/2022 - 20:38
(Bankviet.com) Theo TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, thị trường chứng khoán Việt Nam có triển vọng phục hồi trong tháng cuối năm 2022 và tăng trưởng tích cực hơn năm 2023.

Bất chấp các con số tăng trưởng vĩ mô tích cực, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam lại suy giảm rất mạnh trong tháng 10 nói riêng và năm 2022 nói chung. Thậm chí không ít lần trong tháng chỉ số chính của TTCK Việt Nam nhúng về ngưỡng ba chữ số, lọt top giảm sâu thế giới. Tính trong tháng 10, VN-Index mất 9,2% so với tháng trước, các chỉ số phụ khác thậm chí ghi nhận diễn biến tồi tệ hơn khi VN30, VN MIDCAP và VN SMALLCAP giảm lần lượt 10,9%, 11,9% và 15,8%.

Bước sang tuần đầu tiên của tháng 11, chứng khoán lại lao dốc, riêng phiên cuối tuần trước, chỉ số chính có lúc lao dốc hơn 45 điểm do áp lực bán gia tăng mạnh trên diện rộng. Kết thúc tuần giao dịch (31/10-4/11), VN-Index giảm 30,21 điểm (-2,9%) xuống 997,15 điểm, con số này giảm 35% so với hồi đầu năm.

Nguyên nhân giảm điểm và triển vọng thị trường chứng khoán trong thời gian tới
Thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ có triển vọng phục hồi trong tháng cuối năm 2022 và tăng trưởng tích cực hơn năm 2023. Hình minh họa

Vì sao chứng khoán giảm điểm?

Những diễn biến của TTCK khiến người dân cũng như các nhà đầu tư đặt câu hỏi về nguyên nhân thị trường sụt giảm trong bối cảnh kinh tế trong nước tích cực. TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo về thị trường chứng khoán Việt Nam với tiêu đề "Thị trường chứng khoán Việt Nam sụt giảm mạnh: Nguyên nhân, triển vọng và giải pháp". Theo Nhóm nghiên cứu, TTCK Việt Nam sụt giảm trong năm 2022 là vì một số lý do chính như:

Thứ nhất, thị trường đang bước vào giai đoạn điều chỉnh giảm mạnh sau hơn hai năm tăng khá nóng. Cụ thể, TTCK thế giới và Việt Nam đã trải qua giai đoạn tăng trưởng khá nóng trong 2 năm qua (từ quý 2/2020 đến hết quý 1/2022), thậm chí có thời điểm nhiều chỉ số chứng khoán lên mức cao nhất trong vòng 20-30 năm, VN-Index cũng tạo lập mức đỉnh mới, cao nhất trong lịch sử (1.528 điểm vào ngày 6/1/2022). Đà tăng trưởng này là kém bền vững khi chủ yếu dựa vào những yếu tố như dòng tiền rẻ từ các chính sách hỗ trợ trong đại dịch COVID-19, hiện tượng dùng đòn bẩy tài chính cao trong bối cảnh lãi suất thấp, tâm lý hưng phấn (có thời điểm trở nên "quá mức") của nhiều nhà đầu tư, một số lĩnh vực như CNTT, thương mại điện tử, dược phẩm, bất động sản (BĐS)…được hưởng lợi nhiều từ bối cảnh dịch bệnh. Ngoài ra, đối với Việt Nam, còn có những đặc điểm khác như mức độ rủi ro cao hơn do tâm lý đám đông, chất lượng nhà đầu tư còn thấp….như nêu dưới đây.

Do đó, khi bối cảnh kinh tế toàn cầu và trong nước thay đổi (lạm phát tăng cùng rủi ro suy thoái kinh tế toàn cầu), thị trường tài chính – tiền tệ toàn cầu có xu hướng thắt chặt, lãi suất và tỷ giá tăng, nhà đầu tư điều chỉnh lại đánh giá, kỳ vọng của mình, việc TTCK toàn cầu (trong đó có Việt Nam) điều chỉnh mạnh là tất yếu, nhất là từ tháng 4/2022 đến nay.

Thứ hai là rủi ro, thách thức gia tăng đối với kinh tế toàn cầu và Việt Nam. Theo đánh giá của TS. Cấn Văn Lực, khả năng suy thoái nhẹ kinh tế toàn cầu năm 2023 ở mức trên 50% (từ 55-60%), trong đó có những đối tác lớn của Việt Nam (như với Mỹ, khả năng suy thoái 60-70%, EU 50-60%...), khiến thị trường xuất khẩu, đầu tư đang bị thu hẹp, trong bối cảnh CPI toàn cầu năm tới còn ở mức cao (tăng khoảng 6,5%, dù giảm từ mức 8,8% năm 2022), trước khi trở lại quỹ đạo 4% năm 2024 và khoảng 2,5-3% sau đó.

Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam đối mặt với 5 rủi ro, thách thức chính đến cuối năm 2022 và năm 2023; đó là: NHTW các nước tiếp tục tăng lãi suất nhằm kiểm soát lạm phát, khiến mặt bằng lãi suất còn tăng, rủi ro tỷ giá, nghĩa vụ nợ tiếp tục tăng, áp lực thanh khoản lớn hơn; xung đột Nga – Ukraine còn ảnh hưởng tới chuỗi cung ứng và giá nguyên vật liệu, năng lượng, lương thực – thực phẩm; Trung Quốc tăng trưởng thấp do mở cửa thận trọng và tập trung cơ cấu lại,…; khả năng suy thoái nhẹ kinh tế toàn cầu năm 2023 là hiện hữu, thu hẹp thị trường xuất khẩu, đầu tư và du lịch quốc tế. Còn ở trong nước, áp lực lạm phát, lãi suất, tỷ giá tăng còn lớn trong bối cảnh dư địa chính sách tiền tệ bị thu hẹp, doanh nghiệp khó khăn về dòng tiền, nghĩa vụ trả nợ, thị trường đầu ra; giải ngân đầu tư công và các chương trình mục tiêu quốc gia, Chương trình phục hồi dù được thúc đẩy song còn chậm; nợ xấu tiềm ẩn tăng vẫn là thách thức trong bối cảnh triển vọng tăng trưởng kinh tế chậm lại, nhiều bộ phận doanh nghiệp còn khó khăn.

Thứ ba là dòng tiền vào TTCK Việt Nam sụt giảm mạnh so với 2 năm trước. Hiện tượng này theo TS Cấn Văn Lực là do hầu hết những dòng tiền chính đổ vào TTCK Việt Nam thời gian qua đều giảm. Cụ thể, nhà đầu tư nước ngoài không còn được tiếp cận nguồn vốn giá rẻ dễ dàng như trước do các gói hỗ trợ đã chấm dứt, lãi suất tăng, thanh khoản thị trường tài chính toàn cầu eo hẹp hơn và hệ thống ngân hàng toàn cầu cũng thắt chặt điều kiện cho vay do e ngại rủi ro suy thoái, rủi ro tài chính toàn cầu tăng lên.

Thứ tư là áp lực giải chấp. Theo Fiinpro, dư nợ cho vay ký quỹ của các CTCK tính đến cuối quý 3/2022 ở mức 165.000 tỷ đồng (mặc dù giảm 18% so với cuối năm 2021, song vẫn là mức khá cao so với giai đoạn trước năm 2019). Với lãi suất tăng, nghĩa vụ trả nợ tăng, giá cổ phiếu giảm mạnh, một số nhà đầu tư sở hữu nhiều cổ phiếu đã phải bán giải chấp (hiện tượng force sell) để bù đắp phần sụt giảm của giá cổ phiếu dùng thế chấp cho các khoản vay ký quỹ, cũng là để hạ tỷ lệ nợ về mức an toàn theo quy định. Vòng xoáy giải chấp này đã diễn ra rất mạnh trong tháng 10 vừa qua.

Ngoài ra còn có tâm lý đám đông và niềm tin của nhà đầu tư chứng khoán giảm mạnh. Bên cạnh những tác động tiêu cực từ bối cảnh rủi ro vĩ mô, kinh tế - tài chính như nêu trên; tâm lý nhà đầu tư còn chịu ảnh hưởng từ những vụ việc vi phạm pháp luật, khởi tố lãnh đạo của một số doanh nghiệp lớn, cùng các biện pháp chấn chỉnh TTCK và bất động sản trong thời gian qua, cùng với một số tin đồn thất thiệt trên mạng xã hội…v.v. Không chỉ cổ phiếu của những doanh nghiệp vi phạm mà còn cả những cổ phiếu khác cũng bị bán tháo do tâm lý lo ngại, thận trọng lan rộng, dẫn đến nhiều giá cổ phiếu giảm sàn. Việc xử lý, giải quyết và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, rào cản pháp lý còn chậm cũng có tác động nhất định đến thị trường và niềm tin của nhà đầu tư.

Triển vọng nào cho thị trường trong thời gian tới?

Bất chấp những khó khăn, rủi ro và thách thức khiến thị trường sụt giảm mạnh thời gian qua, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vẫn nhận định, thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ có triển vọng phục hồi trong tháng cuối năm 2022 và tăng trưởng tích cực hơn năm 2023 (khoảng 15-20%) bởi năm yếu tố sau: Kinh tế Việt Nam sẽ tăng khoảng 8% năm 2022 và 6-6,5% năm 2023, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang gặp nhiều khó khăn và đứng trước nguy cơ suy thoái.

Bên cạnh đó, các nền tảng kinh tế vĩ mô và cân đối lớn cơ bản được giữ vững, trong tầm kiểm soát. Bất chấp những áp lực lớn từ những rủi ro trên thế giới và trong nước, Việt Nam vẫn giữ được các nền tảng kinh tế vĩ mô như lạm phát ở mức khá thấp, lãi suất và tỷ giá tăng trong tầm kiểm soát.

Ngoài ra, nền kinh tế thực, nhất là hoạt động của doanh nghiệp cơ bản vẫn khả quan, dù khó khăn hơn. Hoạt động doanh nghiệp thời gian qua phục hồi mạnh nhờ các hoạt động kinh tế - xã hội được mở cửa trở lại. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới lũy kế 10 tháng tăng 34,3% và số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 49% so với cùng kỳ năm trước. Lợi nhuận trước thuế của trên 200 doanh nghiệp niêm yết trong 9 tháng đầu năm tăng 22% so cùng kỳ, cả năm 2022 dự báo tăng khoảng 18% và năm 2023 dự báo tăng khoảng 10-15%.

Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế đánh giá triển vọng Việt Nam ở dạng "tích cực" trong trung hạn. Cuối tháng 10/2022 vừa qua, Tổ chức Fitch Ratings xếp hạng nhà phát hành ngoại tệ dài hạn của Việt Nam ở mức BB với triển vọng tích cực, trong đó đánh giá triển vọng tăng trưởng tích cực trong trung hạn; nợ Chính phủ, nợ nước ngoài và thâm hụt ngân sách vẫn ở mức thấp so với nhóm quốc gia tương đồng. Đồng thời, Fitch Ratings cũng đánh giá rủi ro bên ngoài đối với Việt Nam bao gồm chiến sự tại Ukraina, điều kiện nguồn vốn toàn cầu eo hẹp hơn, độ mở nền kinh tế lớn dễ bị tổn thương từ các cú sốc bên ngoài.

Chỉ số PE của thị trường đang ở vùng trũng thấp sau thời gian điều chỉnh giảm.
Chỉ số PE của thị trường đang ở vùng trũng thấp sau thời gian điều chỉnh giảm.

Giá chứng khoán Việt Nam đang ở mức khá hấp dẫn khi chỉ số PE của thị trường đang ở vùng trũng thấp sau thời gian điều chỉnh giảm. Chỉ số PE của VN-Index hiện đang ở mức 10,2 (ngang với vùng đáy lịch sử trong giai đoạn dịch Covid-19). Mức này được đánh giá là hấp dẫn khi nó thấp hơn so với hầu hết các thị trường khác trên thế giới.

Bên cạnh đó, dữ liệu quá khứ cho thấy, mỗi lần P/E của VN-Index về 10,x thị trường thường xuất hiện sóng hồi mạnh mẽ sau đó, điển hình là giai đoạn 2020-2021. Dù bối cảnh khác nhau và dù chỉ số PE chỉ là tham khảo, nhà đầu tư còn phân tích nhiều chỉ số khác (như EPS, P/B…) nhưng cũng là thời điểm đáng quan tâm.

Đức Anh

Theo: Kinh Tế Chứng Khoán